Thủy điện 2. Sạt lở và ĐTM
Thủy điện nhỏ, sạt lở, và ĐTM
Đợt vừa rồi tôi có dịp đi đánh giá tác động môi trường của các nhà máy
thủy điện nhỏ (ở Cao Bằng, Điện Biên, KonTum, và sắp tới sẽ đi Quảng Nam). Và tôi
cũng có dịp đi khảo sát xây dựng chiến lược phát triển đô thị (Bạc Liêu, An
Giang, DakNong, Phú Yên, Huế, Lào Cai). Thực tế có nhiều vấn đề, trong đó có
câu chuyện về thủy điện.
Các nhà máy thủy điện nhỏ được đánh giá là có nhiều mặt lợi, nhưng cũng
có nhiều mặt tác động đến môi trường. Hiện nay các tỉnh đều nói là làm hết rồi,
không còn chỗ nào để làm nữa. Nhưng thực tế, khi đi khảo sát tôi thấy các doanh
nghiệp và lãnh đạo địa phương vẫn nhìn thấy còn nhiều chỗ có thể làm được nữa,
và vẫn đang có dự định xin làm thêm nữa. Xét về tiềm năng tích nước, và tiềm
năng địa hình dốc thì có thể còn nhiều khả năng. Xét về lợi ích thì hiển nhiên
là có nhiều lợi ích. Về kinh tế, rất rõ rồi. Góp phần vào phát triển địa
phương. Khi làm thủy điện, làm đường giao thông là nhu cầu bắt buộc của doanh
nghiệp. Không có đường thì ko đi vào xây dựng đập và nhà máy được. Con đường
chính là cái lợi lớn nhất cho dân vùng núi cao.
Tuy nhiên, theo ý kiến của các sở nông nghiệp và sở tài nguyên thì thủy
điện có nhiều tác động xấu đến môi trường, đặc biệt là ứng phó biến đổi khí hậu
ở vùng cao. Cụ thể là mất rừng, và lũ điều này đã được nói đến nhiều rồi. Thứ
hai là dòng nước cạn. Đặc biệt trong điều kiện dòng sông bị chặn quá nhiều, cả
từ phía Trung Quốc, nên dòng chảy trong mùa cạn đã ảnh hưởng rất lớn đến nước
cho sinh hoạt, tưới tiêu, và cho thủy sinh. Thứ ba là sạt lở. Các công trình hạ
tầng nói chung, chứ không chỉ thủy điện, khi xây dựng trên vùng núi cao, và
dốc, đặc thù của vùng núi phía Bắc, đã làm trầm trọng thêm tình trạng sạt lở.
Sạt lở phần lớn là do kinh phí có hạn nên quá trình khảo sát không kỹ, thiết kế
không đảm bảo an toàn ở mức cao nhất, thi công không đảm bảo chất lượng cao
nhất. Khi gặp mưa lớn, kéo dài thì hạ tầng ko thể ngăn được lũ và sạt lở. Gây
ra thảm họa càng nặng nề hơn so với tình trạng rừng tự nhiên. Tình trạng lũ,
sạt lở vừa qua là một ví dụ.
Tất cả những thông tin về tác động không mong muốn này mà tôi có được đều
là từ các sở. Chứ trong quá trình đi khảo sát phỏng vấn doanh nghiệp, chính
quyền xã, và người dân đều không có được cái nhìn này. Chính quyền xã, huyện và
người dân chỉ nhìn thấy được những gì trực tiếp, trước mắt, chứ không nhìn thấy
được những gì xa, cần sự phân tích. Ngay cả khi bị tác động từ lũ quét, sạt lở
họ cũng không biết nguyên do từ đâu. Vậy mà, trong những quy định về thẩm định
ĐTM lại không thấy có tham vấn các sở có liên quan, ít nhất là sở nông nghiệp,
môi trường, xây dựng, giao thông. Theo quy định, bắt buộc phải có ý kiến của
chính quyền xã, và của người dân bị ảnh hưởng về đất, nhà. Nếu không có thì ĐTM
không thể được thông qua. Tôi nghĩ cũng cần có quy định về bắt buộc có ý kiến
của các sở có liên quan. Hiện nay các sở nông nghiệp, môi trường đều nói rằng
chúng tôi nói nhiều rồi, nhưng ý kiến của chúng tôi không được lắng nghe. Ngoài
ra, ý kiến của người dân không chỉ là những người mất đất, nhà, mà cả những
người bị ảnh hưởng khác như về sử dụng nguồn nước cũng cần được quan tâm (lũ
lụt, hạn hán, thủy sinh). (Đó là chưa kể trước đây làm ĐTM chỉ mang tính hình
thức)
Khi tham vấn các sở thì họ nói rằng trước đây cứ rải tham đỏ để mời đầu
tư. Không xiết chặt về ĐTM. Nay đã đi vào hoạt động và bộc lộ nhiều vấn đề
(giao thông, thủy điện, khu công nghiệp). Bây giờ lại phải nghiêm khắc xiết
chặt lại. Anh nào không tuân thủ thì buộc phải có giải pháp. Tuy nhiên, ở phía
tỉnh thì chỉ mới dừng lại ở việc ra Công Văn. Vì vậy vẫn còn khó khăn vì mức độ
bắt buộc tuân thủ chưa cao, và cũng thiếu kinh phí nên rất khó khăn để tuân
thủ. Nhưng dù sao thì các tỉnh cũng đã có những quy định để điều chỉnh (dù còn
yếu).
Đây là mới nói về ĐTM thôi, chứ còn về quy hoạch thì còn nhiều vấn đề
hơn nữa. Nếu có dịp sẽ nói thêm sau.
HN 2/11/2017
Nhận xét
Đăng nhận xét